Ghi Nhớ?
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Ai giỏi văn giúp giùm!!! Avatar11



Về Đầu Trang
9/10/2010, 5:55 pm
hoahongden
hoahongden
Thành Viên
Thành Viên
hoahongden

Birthday : 26/02/1991
Coin : 52164
Thanks : 5

1. Ý nghĩa nghệ thuật ngôn ngữ của từ "thốt" trong câu "Hoa cười ngọc thốt đoan trang" ( Truyện Kiều)
2. Phân tích bài văn Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường( bài này mới nên ko thấy có trong văn mẫu).
Thanks


9/10/2010, 6:00 pm
admin
Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào
admin
Quản Trị Viên
Quản Trị Viên
admin

Birthday : 27/02/1990
Coin : 58998
Thanks : 110
Status : Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào

Dàn ý phân tích bài bút kí của Hoàng phủ Ngọc Tường

1. Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp sông Hương : được khơi gợi từ không gian và thời gian cụ thể.(Đoạn 1)
Đó là khu vườn cổ sầm uất, bên dòng sông 'tỏa sáng một thần thái yên tĩnh và khoáng đạt'. Đó là những kí ức về Nguyễn Du, truyện Kiều: hình ảnh Nguyễn Du ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong, miên man trong vẻ đẹp của dong sông đang đổi sắc không ngừng và mùi hương của hoa trái trong vườn.

Đó là âm sắc Huế thấp thoáng trong 'Truyện Kiều' : dòng sông đáy nước in trời , nội cỏ thơm, nắng vàng, khói biếc, dương liễu u hoài, hoa trà mi nồng nàn ,mùa thu quan san, vầng trăng thắm thiết,..._Cái bóng mông lung trong thơ Nguyễn Du, 'như một vang bóng thời gian, cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm, đuổi bắt, hào hoa, đam mê, thi ca và âm nhạc, gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở'.

2.Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn
Ai giỏi văn giúp giùm!!! Tonguehóng khoáng và man dại
Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'.Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô gái Digan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.

3.Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố
'Sắc đẹp dịu dàng , trí tuệ , người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác biệt.
Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng), Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi_giữa những bãi bờ xanh biếc , nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.
Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'.

Vói những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ , sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi :Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo', những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm xanh, trưa vàng ,chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét.

Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan,man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'.
Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,...
Theo vancap3.co.cc
_____________________________________

Tình cảm về người con gái mang tên dòng sông cứ miên man chảy trong tôi khi đọc bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Và entry này như một niềm chia sẻ với em ...

Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”...
Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.

Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.

Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt - khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.

Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.

Sông Hương - dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất - đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Ðanuýp của Buđapet…” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng . Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ,toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm ,dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang", của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…

Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…

Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế - chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương - dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.

Tình yêu của sông Hương và Huế - một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê va để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.

Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp , câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời…


9/10/2010, 6:05 pm
admin
Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào
admin
Quản Trị Viên
Quản Trị Viên
admin

Birthday : 27/02/1990
Coin : 58998
Thanks : 110
Status : Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào

Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nội dung:
A. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
2. Tác phẩm
B. Tìm hiểu tác phẩm
1. Từ góc độ thiên nhiên
2. Từ góc độ văn hoá
3. Từ góc độ lịch sử
4. Nét đặc sắc trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường
C. Tổng kết

A. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông học tại Huế hết bậc trung học. Tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1960 và trường Đại học Huế năm 1964. Năm 1966 Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ly lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ. Ông từng là Tổng thư ký Hội văn học nghệ thuật Trị Thiên - Huế, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, tổng biên tập tạp chí Cửu Việt.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý…
Các tác phẩm bút ký chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999)…Thơ: Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992)…
2. Tác phẩm
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút ký xuất sắc, viết tại Huế ngày 4/1/1971 in trong tập sách cùng tên.

B. Tìm hiểu tác phẩm

Đọc những trang viết về Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đã nhận xét: “Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy. Phải chăng ở đây đã có một sự hoà hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hoá Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động nhạy cảm, tinh tế”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả sông Hương từ ba góc độ: góc độ thiên nhiên, góc độ lịch sử, góc độ văn hoá.
1. Từ góc độ thiên nhiên
Hoàng Phủ Ngọc Tường quan sát thấy vẻ đẹp của sông Hương hiện ra
khá đa dạng và đặc sắc.
Lúc ở rừng già:
Nhìn từ nơi cội nguồn dòng chảy, sông có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này, sông Hương phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu khác nhau: rầm rộ giữa bông cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, có lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng phép nhân hoá khi cho rằng dòng sông của mình giống một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
 Vẻ đẹp sông Hương nơi cội nguồn, vẻ đẹp trong phần sâu thẳm của
dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.
Khi ra khỏi rừng già, xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố:
Sông Hương đã bộc lộ sức mạnh bản năng của mình, một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ của “người mẹ phù sa” với “khuôn mặt kinh thành” và tâm hồn sâu thẳm của dòng sông đã đóng kín lại ở cửa rừng. Trong cái nhìn tinh tế của tác giả, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương xuôi về thành phố đã bộc lộ rõ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả: chuyển dòng liên tục, vòng giữa, uốn mình, qua điện Hòn Chén, chuyển hướng Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi, vẽ một hình vòng cung ôm chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế…Hàng loạt động từ xuất hiện diễn tả dòng chảy sống động qua nhiều địa danh khác nhau của xứ Huế.
 Khi ra khỏi vùng núi sông Hương như bừng lên sức trẻ và niềm khao
khát của tuổi thanh xuân.
Sông Hương khi về với kinh thành Huế.
Dòng sông được so sánh giống một tấm lụa mềm, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. “Bốn bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi. Có lúc sông Hương kiêu hãnh âm u khi được phong kín trong những rừng thông u tịch khi qua đền đài làng tấm. Khi lại bừng sáng tươi tắn trẻ trung khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia…
 Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp kể và tả được tạo nên cảnh đẹp hài hoà kỳ thú của sông Hương với thiên nhiên xứ Huế.
Sông Hương khi chảy vào thành phố:
Khi chảy vào thành phố, sông Hương đã có sự khác biệt, vui tươi hẳn lên. Kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc – Đông Nam uốn một cánh cung nhẹ, mềm hẳn đi và nó được tác giả ví như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu (thuận tình mà không nói ra vì e lệ,…).
Giáo sư Trần Đình Sử khi nghiên cứu bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã ví “hành trình của sông Hương từ nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế”.
So sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng của thế giới để thấy sông Hương được nhìn bằng con mắt hội hoạ. Ngay từ đầu nhà văn đã viết: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm như mặt hồ yên tĩnh. Người ta thường nói sông Hương êm đềm và yên tĩnh như chính thành phố Huế vậy.
Tác giả liên tưởng đến sông Nê-va với những phiến băng trôi lướt qua rất nhanh, nhìn sự chuyển động liên hồi đó, tác giả nghĩ về một giấc mơ khi còn nhỏ: “Ôi, tôi muốn hoá làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tầu thuỷ tinh để đi ra biển”. Nhà triết học Hêraclit đã từng nói: “Không có ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Câu nói nổi tiếng này hẳn đã không còn xa lạ với chúng ta, câu nói với hàm ý vạn vật chuyển biến không lặp lại. Đứng trước dòng sông Nê-va với những phiến băng trôi băng băng qua, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ đến dòng sông quê hương mình và cảm thấy quí điệu chảy lững lờ của sông Hương, đấy là điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, điệu chảy lặng lờ của sông Hương có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh đèn hoa đăng bồng bềnh trên sông.
Tiểu kết: Từ góc độ thiên nhiên, vẻ đẹp của sông Hương hiện ra đa dạng và đầy ấn tượng. Lúc ở rừng già là cả một hành trình gian truân của sông Hương ở nơi cội nguồn, nó sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Khi ra khỏi rừng già, sông Hương lại mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hoá xứ sở. Đến khi về với kinh thành Huế, với vẻ đẹp huyền ảo, sông Hương mềm như tấm lụa trong sắc màu biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Và khi chảy vào lòng thành phố sông Hương giống như cô gái Huế vừa dịu dàng tình tứ vừa mơ mộng đắm say.
 Qua đó ta thấy được Hoàng Phủ Ngọc Tường có một vốn văn hoá
phong phú và một vốn ngôn từ giàu cô đậm chất thơ.
2. Từ góc độ văn hoá
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy vẻ đẹp của sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, sông Hương như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này.
Tác giả cũng liên tưởng đến Nguyễn Du và “Truyện Kiều”. Nguyễn Du từng có thời làm quan ở Huế và từng bao năm lênh đênh trên dòng sông này. Vì thế Hoàng Phủ Ngọc Tường có căn cứ để suy đoán có lẽ Nguyễn Du đã diễn tả điệu “Tứ đại cảnh” – tên một bản nhạc cổ Huế qua tiếng đàn của Kiều. Và từ đó những bản đàn đã đi suốt cuộc đời Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn cho sông Hương khi thấy ở sông Hương có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây. Khúc quanh sông Hương còn được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận như là nỗi vương vấn, hay chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, vừa đặc biệt được ví như nàng Kiều trong đêm tình tự trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề: “còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy như vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sỹ”. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc trong bài “Chơi xuân” của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng trong bài “Trường giang như kiếm lập thanh niên” của Cao Bá Quát, từ nỗi quan hoài vạn cổ soi bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ bà Huyện Thanh Quan và đặc biệt sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều trong cái nhìn thắm thiết tình người của Tố Hữu.
3. Từ góc độ lịch sử
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lật tìm trong tư liệu những sự kiện có liên hệ với dòng sông và ông đã thấy: Sông Hương từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Trong tác phẩm “Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương” của những người Mĩ gồm: Ra-pha-en-Li-tao-ơ, Noóc-man-u-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen đã đánh giá đầy phẫn nộ: “…một số trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc thành nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ…” Đó là sự nuối tiếc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người Mĩ còn thấy sự mất mát lớn lao đó, huống hồ là người Việt Nam, và đặc biệt là với Hoàng Phủ Ngọc Tường - một người con nặng lòng với xứ Huế. Không chỉ đau với nỗi đau của quê hương mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn rất đỗi tự hào về xứ Huế qua việc nhắc lại lời phát biểu của Đại tướng: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc…”.
 Sông Hương là nhân chứng lịch sử qua nhiều thời kỳ lịch sử. Nhân chứng nhẫn nại, kiên cường qua nhiều thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, ta cũng thấy được một phần nào đó đóng góp của sông Hương với lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc.
Với trí tưởng tượng sáng tạo và tài hoa, tác giả đã ví sông Hương với hình ảnh cô gái Huế dịu dàng, kín đáo mà sâu sắc rất mực thuỷ chung với tà áo tím. Lại đã có lúc Hoàng Phủ Ngọc Tường ví dòng sông của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.
4. Nét đẹp của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương khiến sông Hương trở lên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người.
Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hoá.
Có sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân, khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.
Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về phương diện địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật đã tạo lên áng văn đặc sắc này.
C. Tổng kết
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về dòng sông với tấm lòng ưu ái, với tình yêu sâu sắc, thuỷ chung…Trong mối quan hệ với con người dòng sông ấy là dòng sông - đời người. Với xứ sở đã sinh thành và cưu mang nó, sông Hương đã tri ân bằng dòng nước mát lành và phù sa màu mỡ để hoa trái của những khu vườn An Hiên ngọt lành. Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” qua tài năng văn chương - Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên một ấn tượng đẹp trong lòng độc giả. Sông Hương không chỉ đẹp bởi vẻ đẹp hoang sơ và trong sáng trong điệu chảy lững lờ mà còn đẹp bởi một huyền thoại chứa đựng chiều sâu của tâm linh : “vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói: “Ai đã đặt tên cho dòng sông? là “bút ký dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ lên một dòng sông y như nó tự có. Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: Sông Hương như một viên ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động làm thay đổi dù điều này không phải dễ…”.

Một số đề bài ứng dụng:
Đề 1: Phân tích hình tượng sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Gợi ý
Phân tích:
Góc độ thiên nhiên:
Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.
Vẻ đẹp của sông Hương khi ra khỏi rừng già
Vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua kinh thành Huế.
Vẻ đẹp của sông Hương khi vào thành phố Huế.
Góc độ văn hoá:
Vẻ đẹp sông Hương qua những áng văn thơ.
Góc độ lịch sử:
Vẻ đẹp hùng tráng trong lịch sử.
Mô tả tổng quát sông Hương qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên như một “cô gái Di-gan” mãnh liệt, mê đắm nhưng không kém phần dịu dàng, tình tứ, ý nhị.
Đề 2: Cảm nhận về cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Gợi ý
Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Uyên bác (kiến thức về lịch sử, địa lý, văn hoá…).
Tinh thế, tài hoa (cảm nhận những khía cạnh khuất lấp của con sông, ngôn ngữ so sánh độc đáo, ngôn từ phong phú gợi cảm…).
Giàu trí tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng (tưởng tượng hành trình tìm về cố đô như hành trình tìm về với “người tình mong đợi”…).
Gắn bó máu thịt và tự hào với cảnh vật và con người Huế (những suy tưởng, đối sánh khi đứng trước sông Nê-va…).


9/10/2010, 6:14 pm
hoahongden
hoahongden
Thành Viên
Thành Viên
hoahongden

Birthday : 26/02/1991
Coin : 52164
Thanks : 5

Thanks Admin
Còn câu 1


9/10/2010, 6:20 pm
admin
Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào
admin
Quản Trị Viên
Quản Trị Viên
admin

Birthday : 27/02/1990
Coin : 58998
Thanks : 110
Status : Cùng xây dựng wWw.congdongthanhbinh.com phát triển nào

Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ ...

Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ : Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai .

Hay như chữ thông minh trong câu Thông minh vốn sẵn tính trời dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , vừa hấp dẫn , rất có hồn , điều đó đã quá rõ rồi. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng , mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm Truyện Kiều , Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng hạn như câu Anh minh phát tiết ra ngoài … Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều .

Còn như từ não trong câu Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân . Ở đây , Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , buồn , là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng , não nuột) . Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc . Bởi lẽ , khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề . Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người , Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ . Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế . Cả câu Não người cữ gió tuần mưa, thì từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy .

Nhiều người cho rằng Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt . Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người . Đó là trường hợp câu thơ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ . Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn , bóng , láng của đồ vật , chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã , lịch sự của con người . Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý chế giễu , mỉa mai . Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ , tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm , giả tạo và có phần trai lơ , đàng điếm .

Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu Ghế trên ngồi tót sỗ sàng - một cử chỉ vội vàng , khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng . Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng với phẩm cách văn hoá của một giám sinh . Nó qúa bất ngờ so với sự chờ đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám . Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh . Tự định vị một cách vô lễ , trịch thượng, chướng mắt trên chiếc ghế của người bề trên ( những bậc cao niên ) càng cho thấy tính chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có . Chỉ một chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã .

Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất , chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn Nguyễn đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện .

Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu Ngưng Bích . Nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực độ . Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng . Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới .

Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . Chỉ một từ tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm , những điều tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại .

Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu chỉ đơn thuần là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách mình .

Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ .

Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ , nhiều từ ngữ đặc sắc như thế . Chữ cậy em và chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo . Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt , câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo , không còn ý vị gì nữa . Vì điều Kiều sắp nói cho em biết thuộc về chữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho . Do vậy , dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất .

Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa Kiều chạy trốn là tuyệt khéo . Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm , dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm , mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường .

Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ hoạn Cất mình qua ngọn tường hoa – câu 2.227 . Chữ cất dùng ở đấy thật tuyệt . Vì ý nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua tường hay trèo qua tường để trốn đi .

Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên : Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta . Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn . Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều . Quả thật với hoàn cảnh Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được . Chữ chặn vì thế mà có giá trị biểu cảm cao .

Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt , rất độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa , rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài . Ngay như chữ chút là một uyển ngữ rất khó dùng , thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế …

1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều :

Là nhà thơ thiên tài của dân tộc , Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ , xây dựng hình tượng nhân vật . Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều . Cũng giống như người xưa , nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai , trăng - hoa, mây - tuyết , thu thuỷ - xuân sơn , hoa - liễu …Làm chuẩn mực , làm thước đo giá trị , vẻ đẹp của con người . Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều . Đó là Mai cốt cách , tuyết iình thần , khuôn trăng , nét ngài , hoa cười ngọc thốt , mây thua, tuyết nhường , làn thu thuỷ, nét xuân sơn , hoa ghen, liễu hờn …Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao , mảnh dẻ như mai ; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều .

Tả nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng : khuôn trăng, nét ngài , hoa cười, ngọc thốt , mây thua , tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân , vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng .

Còn với Kiều , Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều . Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều . Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt . Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như : Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu hờn … Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng , bình lặng như mặt nước hồ thu ; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ … Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó .

Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn . Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét buồn như cúc , điệu gầy như mai … Nói chung , qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc .

2. Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều .

Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống,mờ xa tít tắp với vẻ non xa , tấm trăng gần ; với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông .

Ngoài ra, trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng thu phải là màu quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa , đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là Một gian nước biếc mây vàng chia đôi . Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng , những lúc tâm hồn phân tán … Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình trước cuộc đời .

4 . Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều :

Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần) , với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ .

Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học ( sách Ngữ Văn 9 - tập 1) :

Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây ; làn da trắng mịn hơn cả tuyết ( Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da ) . Ở đây Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc . Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây .

Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn ( Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ) .

Rồi đến màu cỏ non xanh tận chân trời , một màu xanh trải dài mênh mông tít tắp , mà nổi bật trên cái nền toàn cảnh màu xanh ấy là sự điểm xuyết của một vài bông hoa lê màu trắng . Những màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp - những màu sắc tươi sáng, đầy sức sống .

Không chỉ có màu trắng , màu xanh , Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng , màu hồng trong câu Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia . Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời .

Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu / Chân mây mặt đất một màu xanh xanh – là những màu buồn ,ảm đạm, thiếu sức sống , màu của bế tắt, không lối thoát .

Trong Truyện Kiều ,từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng về tính biểu trưng . Tác giả thường lấy màu của sự vật để tả cảnh, gợi tình. Ở đây có mặt sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến , có lờn lợt màu da của mụ Tú Bà, mặt như chàm đổ của Thúc Sinh v.v... Màu cỏ cũng đa dạng : khi thì Cỏ non xanh tận chân trời , khi thì Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh khi thì cỏ lợt màu sương , khi thì cỏ áy bóng tà, khi thì Một vùng cỏ mọc xanh rì …

Với Ngyuễn Du màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý . Màu cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh của cuộc đời , với vẻ thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa , Ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở . Cỏ áy bóng tà - cỏ nhuốm ánh vàng của nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt .

Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm . Đó là những màu quan san, màu quan tái , màu khơi trêu , màu của nỗi nhớ Bốn phương mây trắng một màu / Trông vời cố quốc biết đâu là nhà . Hay trời cao trông rộng một màu bao la . Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn …

5.Về cách sử dụng hư từ :

Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng một cách độc chiếc trong Truyện Kiều Trải bao thỏ lặn ác tà ; Quản bao tháng đợi năm chờ ; Trời Liêu non nước bao xa ; Biết bao duyên nợ thề bồi ; Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao . Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào mà cắt nghĩa được cả : trải bằng nào ngày đêm ; đợi chờ đến bằng nào năm tháng ; xa bằng nào ; thề bồi bằng nào ; đội trên đầu bằng nào . Tất cả đều có ý hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít . Cũng vậy, chữ bấy được dùng độc chiếc như : Khéo vô duyên bấy là mình với ta ; Phủ phàng chi bấy hoá công ; Trời làm chi cực bấy trời ; Thân sao bướm chán , ong chường bấy thân ; Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa . Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng ấy mà cắt nghĩa được cả : vô duyên bằng ấy , phũ phàng bằng ấy , cực bằng ấy , chán chường bằng ấy , đoạ đày bằng ấy ; Đều có ý tỏ lòng thương tiếc hoặc trách móc .

Rồi đến chữ bây , nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc ( Lão kia có giở bài bây) .

Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao , bây , bấy một chữ để làm thành liên tự chỉ thời gian như : bao giờ , bây giờ , bấy giờ … Những hư từ này được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều

Các liên từ : bao nhiêu , bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm , cụ thể là 3 trường hợp sau :

1. Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường ; Bao nhiêu của , mấy ngày đường . Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu.

2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên ; Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình , thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu .

3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi; Bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu …

6 . Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật .

a / Trước hết,cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao , thành ngữ , tục ngữ .

Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều xuất hiện một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ . Để diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu , xót thương cha mẹ , Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như : dưới nguỵêt chén đồng , rày trông mai chờ , tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa , chân trời góc bể , tấm son gột rửa, hoa trôi man mác , nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất , gió cuốn mặt duềnh ,ầm ầm tiếng sóng… Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi , dễ hiểu , mang đậm màu sắc dân tộc .

b / Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều .

Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế , cũng không có trong từ điển thông thường ; mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không phải là hình ảnh sao chép thực tại ) có cấu tạo riêng , nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả :

Nói tới nước mắt thì nói giọt ngọc , giọt châu , giọt tương , giọt hồng , giọt tủi, giọt riêng ...

Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân , giấc mai, giấc hoè , giấc tiên, giấc nồng …

Nói tới mái tóc , không chỉ là tóc mây , tóc sương mà là mái sầu .

Nói tới đường xa , ông nói thành dặm hồng , dặm xanh , dặm băng ,dặm khách , dặm phần …

Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân , chén quỳnh , chén đưa, chén mời , chén khuyên chén đồng … mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống .

Nói tới cửa sổ ông cũng nói bằng những từ của riêng ông : song sa , song mai , song hồ , song mây , song trăng , song đào , song phi …

Nói tới bóng trăng thì là bóng nga, bóng nguyệt …

Nói tói tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng …

Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : gió mưa , gió trăng , gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu …

Những ngôn từ ý tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều . Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá .

Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có . Chẳng hạn : ăn gió nằm mưa , bướm chán ong chường , bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son ,dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu , gió trúc mưa mai , gió giục mây vần , hoa thải hương thừa , hồn rụng phách rời , lấy gió cành chim , tô lục chuốt hồng , tiếc lục tham hồng , liễu ép hoa nài , liễu chán hoa chê , ngày gió đêm trăng , nắng giữ mưa gìn …Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái sự vật có ý nghĩa phổ quát , diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi .

Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt , chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật . Nói Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó . Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là một tấm gương tiêu biểu .

(Sưu tầm)


9/10/2010, 10:36 pm
Vũ Nguyên
Có ra đời mới biết vinh liền nhục
Vũ Nguyên
4rum Manager
4rum Manager
Vũ Nguyên

Birthday : 23/08/1991
Coin : 57687
Thanks : 44
Status : Có ra đời mới biết vinh liền nhục

Min cũng giỏi Văn rứa ha,


9/11/2010, 10:29 pm
ThaiTan_Phan
TRƯỜNG SA - HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM; ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM, TẨY CHAY HÀNG tàu
ThaiTan_Phan
Thành Viên V.I.P
Thành Viên V.I.P
ThaiTan_Phan

Birthday : 27/08/1991
Coin : 67349
Thanks : 102
Status : TRƯỜNG SA - HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM; ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM, TẨY CHAY HÀNG tàu

Ai giỏi văn giúp giùm!!! 161659


9/12/2010, 12:35 pm
mrtuyen35.bk
Chẳng có gì ngoài nụ cười tắt nắng!
mrtuyen35.bk
Mod
Mod
mrtuyen35.bk

Birthday : 07/11/1991
Coin : 60952
Thanks : 49
Status : Chẳng có gì ngoài nụ cười tắt nắng!

Ph dài dòng quá, tui nghĩ từ "thốt" trong câu trên nghĩa là Thúy Vân là ngưòi dễ thuơng, nhí nhảnh, không cần nói nhiều, lâu lâu chỉ thốt lên những lời vàng ngọc


9/12/2010, 7:52 pm
lauvan_pr
beautyful
lauvan_pr
Thành Viên
Thành Viên
lauvan_pr

Birthday : 16/02/1991
Coin : 53350
Thanks : 4
Status : beautyful

ê! dân nhà mình sao dạo này giỏi văn quá vậy!!!!????!!!!
nói thiệt nha, toàn copy trên mạng về thì còn gì nữa.
hết ý kiến đóng góp! toàn giáo sư làm thì đúng chắc!!!


9/12/2010, 11:28 pm
qui_yds
qui_yds
Mod
Mod
qui_yds

Birthday : 01/12/1991
Coin : 54295
Thanks : 38

tôi xin chào thua cac dị


9/13/2010, 12:10 am
ThaiTan_Phan
TRƯỜNG SA - HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM; ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM, TẨY CHAY HÀNG tàu
ThaiTan_Phan
Thành Viên V.I.P
Thành Viên V.I.P
ThaiTan_Phan

Birthday : 27/08/1991
Coin : 67349
Thanks : 102
Status : TRƯỜNG SA - HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM; ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM, TẨY CHAY HÀNG tàu

Trích dẫn :
nói thiệt nha, toàn copy trên mạng về thì còn gì nữa.
hết ý kiến đóng góp! toàn giáo sư làm thì đúng chắc!!!
.

Suỵt... Ai giỏi văn giúp giùm!!! 773163 Ai biểu V nói thiệt chi... Ai giỏi văn giúp giùm!!! 84955


Sponsored content



 Xem thêm các bài viết khác cùng chuyên mục

-
Ai giỏi văn giúp giùm!!! Collap11Trả lời nhanh
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất